Hiển thị các bài đăng có nhãn cac-diem-du-lich-da-lat. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cac-diem-du-lich-da-lat. Hiển thị tất cả bài đăng

Khám phá đồi cù Đà Lạt

Anh nghiêng nghiêng Đồi cù
Em lững lờ Xuân Hương…

Hai câu thơ của ai đó đã vô tình vẽ nên hai hình ảnh chủ đạo của thành phố mộng mơ – Đà Lạt. Qua đèo Prenn, xuyên qua những rừng thông bạt ngàn, du khách đã đặt chân đến thành phố cao nguyên. Từ phía bên kia hồ Xuân Hương - khách sạn Place, du khách có thể nhìn thấy những vú đồi cỏ xanh non tơ, như một giải lụa mềm mại vắt ngang Phố núi soi bóng xuống dòng “Cẩm Lệ” phẳng lặng… đó là Đồi Cù mà có người đã ví như trái tim, như nhịp thở của Đà lạt.

đồi cù đà lạt
đồi cù Đà Lạt

Lịch sử hình thành Đồi Cù Đà Lạt

Ngay từ năm 1942, khi thiết kế đồ án quy hoạch thành phố Đà lạt, kiến trúc sư Lagisquet đã khoanh vùng Đồi Cù như một khu vực "Bất khả xâm phạm" nhằm tạo một tầm nhìn thoáng đãng cho Đà lạt. Về sau, một kiến trúc sư người Scotland đã thiết kế - biến địa danh này thành một Sân Cù 9 lỗ có một Câu lạc bộ đầy đủ tiện nghi nổi tiếng vùng Đông Nam Á. Đồi cù có một tương truyền rất thú vị rằng: Ngày xưa, ở vùng này còn hoang sơ lắm. Đồi cù đã trở thành nơi hò hẹn lý tưởng của những đôi lứa đến tuổi cập kê, gồm 3 quả đồi được gắn 3 cái tên rất lãng mạn: đồi Gặp gỡ, Hò hẹn, Ái ân và có một dòng Cẩm Lệ liên kết 3 quả đồi lại với nhau. Ngã Năm Đại học bây giờ được gọi là Ngã Năm chờ đợi, đường Đinh Tiên Hoàng là đường Tình tự. Đồi cù đã đi vào tác phẩm thơ ca, nhạc,hoạ… của nhiều văn nghệ sỹ tâm huyết với thành phố mộng mơ này.

đồi cù đà lạt
sân gold đồi cù Đà Lạt

Tên Đồi Cù không rõ có từ bao giờ, còn vì sao gọi "Đồi Cù" lại có hai cách lý giải: Có người cho rằng, những quả đồi thoai thoải nơi đây khi nhìn từ xa giống như tấm lưng trần của những con cừu khổng lồ nên đã ví von gọi là "Đồi Cù"; cũng có người giải thích… vì nơi đây là một địa điểm chơi Golf hay còn gọi là đánh cù, nên tên gọi "Đồi Cù" từ đó mà có. Hiện nay Đồi Cù đã được nâng cấp thành sân Golf 18 lỗ, là nơi giải trí của giới thượng lưu trong và ngoài nước.

Nguồn: lamdong.gov.vn

Kỳ vỹ khu du lịch thác Voi

Thác Voi

Thác Liêng Rơwoa hay còn gọi là Thác Voi nằm ở thị trấn Nam Ban, huyện Lâm Hà, cách thành phố Đà Lạt 25km về hướng tây nam.
Đặc điểm: Thác Voi là một trong những thác nước đẹp của Tây Nguyên hùng vĩ với chiều cao hơn 30m, rộng chừng 15m. So với thác Prenn thì độ đứng của thác là đẹp hơn.


khu du lịch thác voi
khu du lịch thác voi

Truyền thuyết thác Voi

Các già làng K'ho cư trú lâu đời ở miền đất này kể rằng: Ngày xưa, vị tù trưởng của vùng núi Jơi Biêng có cô con gái rất đẹp. Mỗi khi sơn nữ cất giọng hát thì lá rừng thôi xào xạc, đàn chim ngừng tiếng hót để lắng nghe. Người yêu của nàng là con trai của tù trưởng làng bên. Chàng được nhiều người yêu mến, quý trọng không chỉ bởi vóc dáng vạm vỡ, khuôn mặt khôi ngô mà còn vì sự gan góc, dũng cảm ít ai sánh kịp. Họ đã trao lời hẹn ước nên duyên chồng vợ song chàng trai phải lên đường giết giặc và rồi nhiều mùa trăng trôi qua mà chẳng thấy quay về. Cô gái đau khổ tìm đến ngọn núi hoang vắng mà trước kia họ từng hò hẹn, cất tiếng hát tha thiết, sầu thảm với hy vọng người trong mộng tìm về chốn xưa. Tiếng hát khiến loài chim B'ling xúc động. Chúng rủ nhau bay đi thật xa để dò la tin tức rồi về báo cho nàng biết là chàng trai đã hy sinh ngoài chiến trường. Thế nhưng, sơn nữ vẫn không chịu chấp nhận sự thật phũ phàng đó. Nàng cứ hát, hát mãi cho đến khi kiệt sức, ngã quỵ và không bao giờ gượng dậy được nữa. Đàn voi phủ phục nghe nàng hát bấy lâu nay cũng hóa đá lặng câm. Bỗng có tiếng nổ lớn, trời đất rung chuyển khiến ngọn núi gãy ngang và một dòng thác đột ngột tuôn chảy, tung bọt trắng xóa. Tiếng thác nước rì rầm hòa cùng tiếng xào xạc của rừng cây, tiếng líu lo chim hót như tiếp nối lời ca, tiếng đàn của sơn nữ xinh đẹp, thủy chung. Người K'ho bèn đặt tên cho thác là Liêng Rơwoa Jơi Biêng - thác của những con voi phủ phục hóa đá trước tình yêu nồng nàn, son sắt.


khu du lịch thác voi
khu du lịch thác voi Đà Lạt

Sẽ thật đáng tiếc khi đến du lịch Đà Lạt - Lâm Đồng mà không tới thác Voi (Liêng Rơwoa)  kỳ bí, thơ mộng. Thác nước gắn liền với sự tích về mối tình thủy chung, bi tráng này đã được công nhận là di tích thắng cảnh quốc gia. Dòng nước trong veo tuôn chảy qua sườn núi đá hoa cương trông thật ngoạn mục, nhất là khi ánh nắng rực rỡ chiếu rọi xuống thác làm bừng lên cầu vồng bảy sắc. Muốn xuống chân thác, du khách phải "chinh phục" 145 bậc tam cấp vòng vèo: khi là những bậc đá thiên tạo "ăn" vào vách núi cheo leo, lúc là các tấm ván của chiếc cầu gỗ xinh xinh chênh vênh bên bờ vực thẳm. Ngút tầm mắt là rừng đại ngàn với những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, thân và cành chằng chịt dây leo. Giữa mênh mang, lớp lớp cây rừng mầu xanh ngắt hoặc điểm xuyết những chòm lá đỏ rực như lửa, những thảm hoa màu vàng tươi hoặc tím biếc đẹp đến lạ lùng. Dưới chân thác Voi và trong cánh rừng già xuất hiện một số tảng đá lớn có hình thù hệt như những con voi. Thế nên, tiếng thác đổ ầm ào khiến người thưởng ngoạn tưởng như có một đàn voi chạy đua hoặc tung vòi phun nước đùa nghịch với nhau. Phía sau dòng thác trắng xóa đang tung bụi nước mù mịt là những hang động sâu hun hút đầy bí ẩn. Đó là hang Dơi ăn sâu xuống lòng đất đến 50m với những vách đá có các hình thù, mầu sắc rất lạ mắt. Rễ cây và dây leo đan xen chằng chịt, càng xuống sâu, hang càng tối nhờ nhờ và lạnh lẽo như động của phù thủy. Đó là hang Gió với lối vào rất hẹp nhưng bên trong khá rộng, vi vút tiếng sáo gió trời.

Bên cạnh vẻ đẹp quyến rũ, thơ mộng, thác Voi từng là cứ địa cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp - Mỹ. Mới được tôn tạo thành điểm tham quan du lịch trong những năm gần đây, song thác Voi nhanh chóng được công nhận là di tích văn hóa - lịch sử cấp quốc gia. Một dự án đầu tư 20 tỷ đồng để nâng cấp thắng cảnh Liêng Rơwoa trong những năm 2003 - 2005 cũng đã được chính quyền địa phương phê duyệt. Tuy nhiên, nguyện vọng tha thiết nhất mà những người yêu thác Voi nhắn nhủ các nhà đầu tư là hãy thận trọng, đừng làm mất đi vẻ hoang sơ kỳ bí của sơn nữ Liêng Rơwoa.



Nguồn: lamdong.gov.vn

Du lịch thác Hang Cọp Đà Lạt

Đường đến thác Hang Cọp

Thác Hang Cọp cách thành phố Đà Lạt 15 km về hướng Đông, thuộc ấp Túy Sơn, xã Xuân Thọ. Thác nằm giữa khu rừng thông với diện tích 308 ha, chiều cao thác chừng 50 m, dài hơn 500 m, trên đường từ Đà Lạt về Dran (Đơn Dương). Thác Hang Cọp có nhiều tên gọi khác như: thác Ông Cọp, thác Ông Thuận, thác Đạ Sar, thác Thiên Thai, thác Long Nhân...

Buổi sáng, trời cao nguyên vần vũ sương mây, chúng tôi lên đường khám phá thác Hang Cọp. Từ Quốc lộ 22, cách Trại Mát chừng 3 km, xe máy tẽ vào một con đường nhỏ lởm chởm đá cuội. Đi được gần 2 km, con đường bắt đầu hiểm trở và khá nguy hiểm với nhiều khúc quanh “cùi chỏ”, một bên là vách đá dựng đứng, một bên là vực sâu thăm thẳm. Xe chầm chậm thả dốc xuống thung lũng hun hút, âm u... Tiếng thông reo vi vu, tiếng thác đổ ầm ì gợi cho chúng tôi thêm nhiều háo hức. Dã quỳ hoa vàng rực rỡ từng vạt dài, điểm xuyến giữa màu xanh chập chùng như cảnh thần tiên. Mimosa nhẹ nhàng, quý phái, e ấp giữa núi rừng hoang dã càng tăng thêm nét lãng mạn của cao nguyên. Khu du lịch sinh thái thác Hang Cọp hiện ra trước mắt chúng tôi với dáng vẻ hoang sơ, hùng vĩ và thơ mộng.


khu du lịch thác hang cọp đà lạt
thác hang cọp Đà Lạt

Mua vé vào cửa 7.000 đ/người và xe. Trong khoảng sân đầy hoa rừng, cỏ dại, chúng tôi bắt gặp tượng “chúa tể sơn lâm” dũng mãnh, cao khoảng 5 m, dài non 10 m, đứng trên một gò đất, ngước cổ như đang gầm thét. Men theo lối mòn quanh co, khúc khuỷu xuống một thung lũng hẹp, rừng đại ngàn thâm u, bí hiểm, khói sương mù mịt, một cây cầu treo lơ lửng giăng ngang mặt thác, trên độ cao 50 m. Tiếng thác va vào đá phát ra âm thanh như tiếng cọp gầm. Bên cạnh thác có một hang đá thiên nhiên rộng chừng hai gian nhà bếp, có 3 ngăn, 1 ngách và 2 miệng. Người Chi’ll gọi là Hang Cọp. Theo truyền thuyết của người Chi’ll, xưa kia, tại vùng rừng núi này có một con cọp rất hung dữ hoành hành. Người ta rất khiếp sợ và gọi cọp bằng “ông Ba Mươi”. Một dũng sĩ người Chi’ll dũng cảm, quyết tâm trừ hại cho dân, sau nhiều ngày theo dõi, chàng đã gặp và “tặng” con cọp hung dữ ấy một mũi tên vào chân. “Chúa sơn lâm” đau đớn vùng chạy vào trong rừng sâu, từ đó không thấy xuất hiện nữa. Hiện nay, gần thác Hang Cọp có tượng dũng sĩ người Chi’ll đang giương nỏ bắn cọp.

Khi hoàng hôn phủ xuống núi đồi, ánh mặt trời vàng nhạt xuyên qua những rừng thông cao vút rồi dần tắt lịm, lá cây hoa Móng Cọp khép mắt lại, là lúc muôn vàn âm thanh của rừng cũng bắt đầu trỗi dậy. Tiếng rừng thông lao xao, rì rào; tiếng chim bay về núi táo tác giữa không gian hoang sơ, u tịch và nổi lên, gờn gợn trong bóng chiều cô quạnh là tiếng “cọp gầm” đều đặn phát ra từ phía ngọn thác huyền thoại, có lúc ta giật mình tưởng như thật.

Đêm đến, khi ánh trăng nhô qua triền núi tỏa ánh sáng xanh trong huyền hoặc, sương mờ lãng đãng vấn vương trên ngàn cây ngọn cỏ... chúng tôi bày ra giữa sân nhà sàn một vò rượu cần, vừa đủ các thành viên ngà ngà say với thịt gà rừng luộc chấm muối ớt ăn kèm cùng măng chua. Cá lóc ở hồ, suối, thịt dẻ, ngon ngọt không thua cá ở đồng bằng... Một đêm trong rừng, bên thác Hang Cọp với nhiều cảm xúc lâng lâng trôi qua trong giấc ngủ yên bình, sảng khoái với cái rét dìu dịu trên độ cao 1.500 m.



khu du lịch thác hang cọp đà lạt
khu du lịch thác Hang Cọp Đà Lạt

Nếu đến thác Hang Cọp, hoặc các danh lam thắng cảnh, hay những bản làng của các dân tộc trên cao nguyên Lâm Viên vào những dịp lễ, tết, lễ hội Mừng lúa mới của người M’nông, lễ hội Ăn trâu của người K’ho, lễ cúng Thần Suối của dân tộc Mạ, lễ cúng Thần Bơ Mung của dân tộc Chu-Ru, bạn sẽ được dịp hòa nhập vào sinh hoạt, lễ hội của người dân tộc. Có thể bạn sẽ nắm tay một cô sơn nữ người Chi’ll xinh đẹp, cùng nhảy múa không biết mệt quanh ngọn lửa hồng trong đêm hội cồng chiêng nồng ấm giữa núi rừng Tây Nguyên bạt ngàn, hoang dã... Trước khi chia tay, nếu có may mắn, bạn sẽ được một cô gái K’ho, hoặc M’nông, hoặc Mạ “ngoéo tay” hẹn gặp lại. Ngón tay út của bạn và cô gái “móc ngoéo” vào nhau, đồng thời hai ngón tay cái chạm khít sát ở phần thịt đầu ngón, tạo ra hình trái tim là biểu hiện của tình cảm thơ ngây, hồn nhiên và sự luyến lưu, lãng mạn của người con gái núi rừng với người con trai phương xa, chẳng biết bao giờ gặp lại.


Xem thêm >>> Khu du lịch thác Pongour 


Nguồn: lamdong.gov.vn

Ấn tượng Dinh 3 Bảo Đại

Nguồn gốc tên gọi Dinh 3 Bảo Đại

Dinh 3 Bảo Đại là tên gọi để chỉ biệt thự nghỉ hè của vua Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn đồng thời cũng là vị hoàng đế cuối cùng của các triều đại phong kiến Việt Nam. Sau này khi người Pháp đưa Bảo Đại trở lại nắm quyền từ năm 1948 rồi thành lập “Hoàng triều Cương Thổ” vào năm 1950, nơi đây còn được gọi là Biệt điện Quốc trưởng. Được xây dựng từ năm 1933 gồm 25 phòng, Dinh 3 Bảo Đại là một tòa dinh thự vô cùng trang nhã, gắn mình trong khung cảnh thơ mộng của một đồi thông ở độ cao 1539m trên đường Triệu Việt Vương, cách trung tâm Đà Lạt chừng 2km về hướng Tây - Nam.
Dinh III nằm giữa rừng Ái Ân, trên đỉnh đồi mà trong dự án chỉnh trang Ðà Lạt của Ernest Hébrard dành cho dinh toàn quyền. Toàn thể công trình chịu nặng phong cách kiến trúc Châu Âu, điển hình là trước biệt điện và sau biệt điện đều có vườn hoa.

dinh 3 bảo đại
Dinh 3 Bảo Đại

Do một may mắn của lịch sử, Biệt điện Quốc trưởng còn được bảo tồn gần như nguyên trạng khiến cho du khách đến đây có thể cảm nhận một bầu không khí vừa trang nghiêm lại vừa gần gũi, ấm cúng của một gia đình hoàng tộc căn phòng làm việc của vua Bảo Đại với những ấn tín quân sự, ngọc tỷ của Hoàng đế, quốc thư, quốc kỳ các nước có quan hệ ngoại giao, tượng bản thân của vua Bảo Đại và vua cha Khải Định, phòng của hoàng hậu Nam Phương, hoàng tử Bửu Long. Phương Mai công chúa, hình ảnh gia đình và những vật dụng thường ngày…tất cả đều như mới hôm qua một chút gì đó se sắt chạnh lòng gợi nhớ một thuở vàng son nay đã không còn !

Kiến trúc Dinh 3 Bảo Đại

Tương tự như Dinh II, Dinh III là một công trình kiến trúc đồ sộ với mái bằng và các hình khối cân đối nhưng không đăng đối một cách cứng nhắc. Biệt điện có 2 tầng:
Tầng trệt: Dùng làm nơi hội họp, yến tiệc, tiếp khách ngoại quốc và quan chức chính phủ Hoàng triều cương thổ. Cửa chính diện rộng vừa phải (khoảng 4m), có sảnh trước khi vào tầng trệt là phòng tiếp tân và các phòng làm việc: bên phải là văn phòng của vua Bảo Ðại, thư viện; bên trái là phòng họp và các phòng làm việc khác; phía trong là phòng giải trí. Ðiều đáng chú ý là việc thiết kế các phòng làm việc của dinh được gắn với các tiểu cảnh kiến trúc không gian phía trong và ngoài thông với nhau qua các lối đi và cửa sổ kính bằng khung thép, tạo ra một khung cảnh hài hoà giữa kiến trúc và thiên nhiên. Tại phòng khánh tiết vẫn còn một kỷ vật là bức tranh đền Angkor Wat do hoàng thân Shihanouk (Campuchia) tặng cho Bảo Đại.

dinh 3 bảo đại
Nội thất Dinh 3 Bảo Đại

Tầng lầu: Toàn bộ tầng 2 của dinh 3 Bảo Đại được dùng cho sinh hoạt gia đình, gồm các phòng ngủ của Vua Bảo Ðại, của hoàng hậu Nam Phương, của các công chúa và hoàng tử Bảo Long, các công chúa Phương Mai, Phương Liên, hoàng tử Bảo Thăng. Phía ngoài phòng ngủ của cựu hoàng là Lầu Vọng nguyệt khá đẹp dùng làm nơi cựu hoàng và hoàng hậu ngắm trăng. Do thái tử Bảo Long là người được chọn kế nghiệp ngai vàng (từ năm 1939) nên trong phòng trang hoàng toàn màu vàng.

Vua Bảo Đại có một bà vợ chính thức là hoàng hậu Nam Phương (tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan), con nhà hào phú Nguyễn Hữu Hào). Từ năm 1949, khi hoàng hậu Nam Phương đưa các con sang sống, học tập bên Pháp thì Bảo Đại chung sống với 3 thứ phi là Bùi Mộng Điệp, Phi ánh và bà Jeny Woong (người Hương Cảng).

dinh 3 bảo đại
Phòng khách Dinh 3 Bảo Đại

Sau khi Bảo Đại qua Pháp sống lưu vong, dinh là nơi nghỉ mát cao cấp của chính phủ Ngô Đình Diệm và sau này là Dinh của Nguyễn Văn Thiệu. Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, trong nhiều năm, dinh thuộc Ban tài chính quản trị tỉnh uỷ Lâm Đồng và mới được giao về cho Công ty du lịch dịch vụ Xuân Hương quản lý từ giữa năm 2000.

Giá trị bảo tồn Dinh 3 Bảo Đại

Ngoài giá trị là một trong những kiến trúc Châu Âu đặc sắc, Dinh 3 Bảo Đại còn chứa đựng nhiều cổ vật cung đình Huế mà còn chứa đựng hầm rượu chìm dưới đất. Ngoài ra, Dinh 3 còn chứa những sản vật mà Bảo Đại săn bắt được như: 3 bộ da cọp, ngà voi. Dinh còn là điểm tham quan hấp dẫn trong số 2 Dinh còn lại.

Nguồn: lamdong.gov.vn

Du lịch chùa Thiên Vương Cổ Sát

Vị trí địa lý chùa Thiên Vương Cổ Sát

Chùa Tàu hay chùa Phật Trầm có tên gọi đầy đủ là chùa Thiên Vương Cổ Sát. Chùa được Hòa thượng Thọ Dã thuộc Hội quán Triều Châu xây dựng năm 1958 gồm 3 gian nhà bằng gỗ lợp tôle.

Vị trí: Chùa Thiên Vương Cổ Sát tọa lạc trên đồi Rồng, tại số 385 đường Khe Sanh, cách trung tâm thành phố Đà Lạt 5km về hướng đông bắc.
Đặc điểm: Chùa theo hệ phái Phật giáo Huê Nghiêm của Trung Quốc.


chùa thiên vương cổ sát đà lạt
Cổng vào chùa Thiên Vương Cổ Sát (chùa Tàu)

Lịch sử hình thành chùa Thiên Vương Cổ Sát

Chùa Tàu được Hòa thượng Thọ Dã thuộc Hội quán Triều Châu xây dựng năm 1958 gồm 3 gian nhà bằng gỗ lợp tôn. Năm 1989, ông Lê Văn Cảnh đã đứng ra trùng tu xây dựng. Lúc này ngôi nhà giữa đã được tháo dỡ nhằm tạo không gian thông thoáng cho hai tòa nhà còn lại. Chùa Thiên Vương Cổ Sát thuộc dòng Hoa Nghiêm tông (Trung Quốc).

Miêu tả chùa Thiên Vương Cổ Sát

Từ cổng chính sau khi leo lên các bậc tam cấp khá cao của chùa và gần như xe không thể lên được. Du khách đi bộ lên cổng Tam Quan, vào cổng Tam quan là đến toà Từ bi Bảo Điện và ngay ở trung tâm này là pho tượng Ðức Phật Di Lặc cao 3m, được sơn son thiếp vàng. Hai bên là bốn bức tượng Tứ Đại Thiên Vương cao 2,6m được đúc bằng xi măng vô cùng to lớn và tượng thần Thiện và Ác vô cùng oai nghiêm. Phía bên trái của Từ Bi Bảo Điện là bàn xoay kỳ diệu. Đây cũng chính là điều thu hút du khách bốn phương vì sự kỳ diệu của nó. Qua một khoảnh sân là đến Minh Quang Bảo Điện, tại đây thờ Tây Phương Tam Thánh gồm các tượng A Di Đà Phật ở giữa, Quan Thế Âm Bồ Tát bên trái và Đại Thế Chí Bồ Tát bên phải. Đây là những bức tượng quí được tạc từ gỗ trầm, cao 4m và nặng 1,5 tấn do Hòa thượng Thọ Dã thỉnh từ Hồng Kông năm 1958. Nơi đây cũng còn hai tượng Văn Thù và Phổ Hiền ở hai bên vách bảo điện. Phía sau chùa, nơi trước đây là cốc của nhà sư Thọ Giã, đã xây dựng Thích Ca Phật Đài cao chừng 10m thật đẹp giữa đồi thông lộng gió. Hiện chùa chỉ có bà Diệu Anh phụ trách hoa, đèn và đọc kinh.

Phía sau 3 chiếc đỉnh bằng xi măng là tòa Quang Minh bảo điện, là công trình kiến trúc chính của ngôi chùa này. Tòa Quang Minh bảo điện này có hình tứ giác, có cạnh 15m và chiều cao 12m. Bên trong có thờ Tây Phương Tam Thánh bằng gỗ trầm hương gồm các tượng A Di Đà ở giữa, Quan Thế Âm Bồ Tát bên trái và Đại Thế Chí Bồ Tát bên phải.Mỗi pho tượng cao 4m, nặng 1.500 kg.Trên đỉnh mái có hình hai con rồng được sắp xếp theo thế hồi long. Các đầu đao của 2 tầng mái trên và dưới đều có gắn các cặp lưỡng long vươn đầu ra ngoài. Ngoài ra, hai bên tường phía trong Quang Minh bảo điện còn có các tranh vẽ phỏng theo các tích Phật. Nơi đây cũng còn hai tượng Văn Thù và Phổ Hiền ở hai bên vách bảo điện.


chùa thiên vương cổ sát đà lạt
Chùa thiên vương cổ sát (chùa Tàu)

Phía sau chùa, sau Quang Minh Bảo Điện - nơi trước đây là cốc của nhà sư Thọ Giã, là một pho tượng Phật Thích Ca đồ sộ, cao trên 10m, đang tọa thiền trên đài sen. Còn tầng dưới là nơi nghỉ ngơi cho khách thập phương tới vãn cảnh chùa. 

Giá trị văn hóa của chùa Thiên Vương Cổ Sát

Chùa mang đậm giá trị và phong cách kiến trúc chùa Hoa và hội quán. Hiện các tăng ni Phật Tử trong chùa đều nói được tiếng Quảng Đông. Đây là điểm tham quan vô cùng hấp dẫn của Lâm Đồng và thành phố Đà Lạt. Chùa mang một phong cách riêng bởi chùa nằm trong không gian vô cùng rộng rãi, thoáng mát, nằm trên một ngọn đồi cao, tách biệt với thành phố Đà Lạt ồn ào.
nguồn: lamdong.gov.vn